Mokpo là thành phố cảng mang trong mình nỗi đau của một căn cứ thuộc địathời cận đại. Tình cảm người Hàn dành cho thành phố này khá đặc biệt. Ở độcao 228 m so với mực nước biển, từ núi Yudal, ngọn núi được hình thành từnhững khối đá có hình thù kỳ lạ như chỉ có trong tranh, biển và thành phố nằmthu trọn trong tầm mắt, rạo rực cùng cảm xúc về chuỗi ngày đã qua.
Chuyến tàu đêm vẫn băng băng, thẳng hướng Mokpo.Ngoài cửa sổ, từng ngôi làng lướt qua trong đêm tối.Ánh đèn loang loáng từ những mái nhà còn ướt mưađêm nhìn hệt như những đóa hoa xanh. Không gian toát lên câuchuyện buồn thật đẹp nhưng cũng thật kỳ bí.
Trong chuyến tàu đêm
Tôi thực hiện chuyến du hành đầu tiên của mình khi lên sáu.Chính nhờ chuyến đi ngắn ngủi ấy, tôi đã hiểu ánh đèn lung linhcủa những ngôi làng kia có thể khiến người ta thấy thế giới ấmáp, tươi đẹp biết bao. Ánh đèn ấy về sau đã trở thành nguồnsức mạnh giúp tôi bắt đầu những chuỗi ngày nay đây mai đócủa mình.
Khi tôi còn nhỏ, cha cũng thường bôn ba khắp nơi và chỉ vềnhà mỗi mùa một lần. Từ trong đáy lòng, tôi không ghét nhữnglần cha trở về, nhưng đó thật ra là vì những món quà cha thườngmua cho tôi. Đôi khi là bộ bút sáp 18 màu, là quyển truyện cổ tích,hay một hộp kẹo. Mỗi lần cha về, giữa cha và mẹ diễn ra nhữngcuộc cãi vã. Hôm ấy, cha mẹ cãi nhau kịch liệt và tôi đã ra khỏinhà. Tôi đặt chân đến một ngôi làng khi mặt trời đã lặn, bóng đêmbao phủ. Trước mắt tôi là những đốm sáng lung linh.
Tôi chăm chú ngắm nhìn và cảm giác từ tận đáy lòng, mộtdòng nước âm ấm đang trào ra. Chợt tôi nghe có tiếng gọi. “Contừ đâu đến?”. Là giọng một người đàn ông trên chiếc xe đạp.Đêm hôm ấy, tôi ngủ lại nhà ông, trong một căn phòng có rấtnhiều truyện trẻ em. Tôi không nhớ mình đã đọc bao nhiêu quyển.Sáng hôm sau thức dậy, tôi bắt đầu quan sát. Đó là một căn nhàxây theo kiểu truyền thống, trước sân có trồng hoa, xung quanhlà hàng rào với những cành dâu. Người đàn ông đêm qua đangphun nước tưới hoa. Giữa những tia nước nhìn như những vắt mìtuôn dài trong mắt tôi khi ấy thấp thoáng các ánh cầu vồng.
Nước mắt Mokpo
Bài “Nước mắt Mokpo” Lee Nan-yeong thể hiện năm1935 trong lần đầu ra mắt công chúng đã làm rungđộng những người Hàn đang hứng chịu nỗi đau thờithuộc địa Nhật. Với bài hát này, cô đã trở thành ngôisao được người Hàn trên khắp đất nước yêu mến.Trong hình là bìa tuyển tập album “Các bài hát đượcyêu thích nhất của Lee Nan-yeong” năm 1971.
Mokpo là thành phố cảng với 240 nghìn dân nằm ở phía tâynam cuối bán đảo Hàn. Năm 1897, khi Mokpo mở cửa cảngcũng lúc là Nhật bắt đầu nhận ra giá trị của thành phố này bởi vị trí vô cùng lý tưởng để tiếp cậnvùng Jeolla –“vựa lúa” lớn nhấtcủa Hàn Quốc. Ngay sau khi HànQuốc bị cưỡng chế sát nhập vàoNhật năm 1910, Mokpo trở thànhgiao điểm đường bộ, đường sắtquan trọng của cả nước. TuyếnQuốc lộ Số 1 nối liền Nam-Bắc, từMokpo qua Seoul đến Sinuiju vàTuyến Quốc lộ Số 2 nối hai miền Đông-Tây, từ Mokpo đến Busan,cùng tuyến đường sắt đã trở thành những con đường chính yếuđể Nhật vận chuyển hàng hóa từ Hàn Quốc về nước. Có thể nói,Mokpo chính là thành phố cảng lịch sử nằm giữa tâm điểm củasự bóc lột thuộc địa. Nhà thơ Kim Seon-wu đã tả về nỗi đau lịchsử này của Mokpo trong bài thơ của mình.Hàng chục mũi kim, giữa timVẫn như bù nhìn rơm, đứng câm điếc.
Một giọt máu đỏ, chưa từng nhỏCảng Mokpo, tất tả ngược xuôi
Thà cuồng nhiệt để khi người ra đi, quằn quạiHơn khoắc khoải, không thể yêu
Giữa lòng cảng liêu xiêu… một con thuyền cuối trở về
(Trích đoạn bài thơ “Cảng Mokpo”)
Lịch sử với nỗi đau “không thể yêu”cũng chính là vận mệnhcủa Mokpo thời thuộc địa. Nhiều bài hát ra đời, như người bạnđồng hành tất yếu của cuộc sống đầy bi kịch. Đó là những bài hátmang đậm chất Mokpo do ca sĩ Mokpo thể hiện. Bài “Nước mắtMokpo” do Lee Nan-yeong (1916-1965), ca sĩ sinh ra tại Mokpo,thể hiện năm 1935 trong lần đầu cô ra mắt công chúng chính làmột trường hợp như thế. Trái tim người Hàn như rung lên cùnglời ca về nỗi đau mất nước. Khi tiếng hát giọng giả thanh của côgái 19 tuổi cất lên, thổn thức theo tiếng phong cầm, người ta nhưthấy vận mệnh buồn cùng điệu vũ lịch sử hiển hiện trước mắt.Trong ấy, vừa có cái “hận” vốn có của giai điệu pansori truyền thống, vừa có hơi thở của những câu chuyện không thể quên.
Văng vẳng tiếng hát đưa đòĐảo Samhak chìm trong sóng gió
Ngẩn ngơ… nỗi buồn MokpoGiữa bến tàu, cô dâu trẻ…
Loang tà áo nước mắt biệt ly.
(“Nước mắt Mokpo” – đoạn 1)
Viện Bảo tàng Lịch sử Cận đại Mokpo được đặtở nơi xưa kia vốn là Công ty Khai thác Thuộc địaPhương Đông, chi nhánh Mokpo. Đường phố quanhđây chính là các chứng nhân lịch sử của Mokpo –thành phố cảng một thời là căn cứ thuộc địa, nơi HànQuốc chịu sự bóc lột của Nhật.
“Thà yêu cuồng nhiệt để rồi chết” là một hiện thực không thểcó với những kẻ mất nước. Một cái đích đến không dám mơ củacuộc đời. Với cô gái trẻ trên bến tàu, nỗi buồn biệt ly là vô tận.Lòng thầm nghĩ biết bao giờ được gặp lại, nước mắt cô thấmđẫm vạt áo. Giấc mơ về một thế giới mới càng xa vời.
Khi người Mokpo nói về Lee Nan-yeong, họ cũng thường nhớđến ca sĩ của những bài nhạc Pháp Edith Piaf (1915-1963). Cả hailà những ca sĩ đồng đại, lần đầu ra mắt công chúng ở cùng mộtthời điểm. Không chỉ thế, họ còn gặp nhau ở những bài ca luônlà niềm an ủi, nguồn cảm hứng vô hạn cho cuộc sống người dânđất nước mình. Edith Piaf có “Hoa hồng và cuộc đời”, “Bài Thánhca tình yêu”; Lee Nan-yeong có “Nước mắt Mokpo”, “Mokpo làhải cảng”. Chân núi Yudal, nơi nhìn xuống trung tâm Mokpo, cũnglà nơi đặt tấm bia khắc lời bài hát của Lee.
Đêm mùa hè trên quảng trường Hòa Bình
Ngôi mộ của ca sĩ Lee Nan-yeong dưới tán cây bằnglăng hồng trong Công viên Lee Nan-yeong ở Samhakdo.
Mọi hải cảng đều nằm ở cuối thềm lục địa, và điều này cónghĩa, với ai đó đây sẽ là nơi gắn liền với một khởi điểm mới. TạiMokpo – chính nơi từng là tâm điểm của sự bóc lột, của nỗi hận,lịch sử đã sang trang với giấc mơ mới.
Người Hàn Quốc, có lẽ không ai không biết Kim Dae-jung(1924-2009). Ông sinh ra trong một gia đình tiểu nông ở làng Hugwangri,nằm trên đảo Hauido cách bờ Mokpo không xa. Sáu nămgiam cầm trong ngục, 10 năm sống lưu vong, 55 lần quản thúc tạigia; có thể nói ông là một trong những nhân vật chịu đàn áp chínhtrị nặng nề nhất thế giới thế kỷ qua. Năm 1980, khi bị chính quyềnquân sự mới tuyên bố tử hình cùng lời đề nghị nếu hợp tác thìsống, ông đã nói “Tôi cũng sợ chết. Nhưng giây phút này nếu tôithỏa hiệp để được sống, tôi sẽ mãi mãi là kẻ đã chết trong lịch sử,trong lòng dân. Còn nếu phải chết, dù chết tôi sẽ sống mãi tronglịch sử, trong lòng dân”. Lời tuyên bố hiên ngang của ông trướccái chết đã được ghi sâu trong lòng người dân Hàn Quốc chođến tận hôm nay. Năm 1997, ông trở thành Tổng thống của HànQuốc và năm 2000, ông được nhận giải Nobel Hòa bình vì nhữngnỗ lực trong sự hàn gắn mối quan hệ hai miền Nam-Bắc. Ở nơixưa kia vốn là đảo Samhakdo, có Bảo tàng Kỷ niệm Giải NobelHòa bình Kim Dae-jung, ghi lại những năm tháng vất vả ông đã trảiqua cùng những dấu ấn vinh quang của ông.
Đêm mùa hè trên Quảng trường Hòa Bình ở Hadang thật mátmẻ.
Từ những đứa bé lái ô tô đồ chơi, những cặp tình nhân bậnbịu chụp ảnh, người bán kẹo bông với đủ màu vui mắt, ngườixếp hàng trước cửa hàng bán đồ ăn vặt, người bán hoa, ngườitản bộ, người ngồi trên bờ đê chắn sóng trò chuyện, cho đếnnhững người câu cá, nghe pansori… Dường như tất cả ngườidân Mokpo đều đổ ra khu bờ biển này.Chợt những ánh đèn màulóe sáng cùng tiếng nhạc vọng tới. Giữa biển hiện lên các tia nướckhổng lồ đủ màu dập dìu nhảy múa theo nhạc. Những lúc chợtthấy cô đơn, hãy lên chuyến tàu đêm, xuống ga Mokpo và hòamình trong dòng người đông đúc của quảng trường Hòa Bình,bạn sẽ thấy những âm thanh huyên náo quyện mồ hôi, hơi thởngười qua lại bỗng như liều thuốc gột sạch nỗi cô đơn.
Vừa dạo bước trên Quảng trường Hòa Bình huyên náo giữađêm, tôi vừa ngẫm nghĩ về năm tháng thời Lee Nan-yeong, KimDae-jung. Khoảnh khắc những người dân mất nước, lang thangkhông nơi nương tựa vẫn từng mơ ước đang diễn ra tại chínhquảng trường bên bờ biển rộn tiếng pansori này. Nền hòa bìnhmà chính trị gia hiên ngang đến kiêu hãnh trước cái chết vẫn từngnung nấu đang ở trước mắt tôi. Tôi nghe phảng phất mùi hươngcủa những người con đã vượt qua nỗi tuyệt vọng, khổ đau đếntột cùng, chiến đấu vì giấc mơ của mình. Những ánh sao lấp lánhtrên bầu trời đêm hè Mokpo.
Những lúc chợt thấy cô đơn, hãy lên chuyến tàu đêm, xuống ga Mokpo và hòa mình trongdòng người đông đúc của quảng trường Hòa Bình, bạn sẽ thấy những âm thanh huyên náoquyện mồ hôi, hơi thở người qua lại bỗng như liều thuốc gột sạch nỗi cô đơn.
Chuyến tản bộ tìm về lịch sử trong khu văn hóa Gatbawi
Khách du lịch lần đầu đến Mokpo đều thích thú khi tản bộ dungoạn quanh Khu phức hợp Văn hóa Nghệ thuật Gatbawi (Đáhình nón). Nơi đây tập trung nhiều viện bảo tàng, phòng triển lãm,nhà trưng bày kỷ niệm như: Viện Bảo tàng Thiên nhiên Mokpo,Viện Bảo tàng Sản phẩm Gốm Sinh hoạt, Phòng Triển lãm Di vậtBiển nằm trong khuôn viên Viện Nghiên cứu Di sản Văn hóa biểnQuốc gia, Bảo tàng Văn học Mokpo, Nhà trưng bày kỷ niệm Namnong,Nhà Văn hóa Nghệ thuật Mokpo, Trung tâm Học tập vàGiáo dục các Di sản Văn hóa Phi vật thể trọng yếu. Bốn ngày đểlòng thanh thản cùng pansori, tham quan Gatbawi, bạn sẽ có dịpcảm nhận lại chính mình trong dòng lịch sử của thành phố này
The Mokpo Harbor Festival has been held every summer since 2006 in Peace Plaza and the surrounding Samhakdo area.
Nhà Trưng bày Kỷ niệm Namnong là một phòng tranh nơi bạncó thể thưởng thức một cách có hệ thống các tác phẩm hội họaNam tông Hàn Quốc được sáng tác khoảng thế kỷ 19 đến cuốithế kỷ 20. Namnong Heo Geon (1908-1987), cháu trai của chuyêngia bậc thầy trường phái Nam tông Sochi Heo Ryeon (1808-1893), được xem là người kế thừa phong cách hội họa cha ông.Ông đã được Chusa Kim Jeong-hui đánh giá mang “khí chất nhấtbờ đông sông Amnok”. Ở phòng tranh này, bạn có thể xem các tác phẩm của Heo Ryeon, của cha ông – Misan Heo Hyeong, haycác đệ tử của ông. Trong các tác phẩm được trưng bày ở đây,tôi thích nhất tác phẩm của Heo Rim (1917-1942) – em trai Namnong.Qua đời sớm ở tuổi 25, Heo Rim đã để lại hai tác phẩm“Ông lão bán gà” (1940) và “Đồi lúa mạch” (1941). Bằng đườngnét mềm mại, tông ánh sáng ấm, ông đã miêu tả sông núi, cuộcsống thường nhật của người Hàn thời thực dân. Khí chất mộttác phẩm vốn được quyết định bởi chiều sâu trong cách nhìn thếgiới của người vẽ. Tôi tự nhủ chỉ hai bức tranh này đã đủ đemlại ý nghĩa cho chuyến đi. Có thể nói đây là đỉnh cao của hội họaHàn Quốc thời kỳ quá độ trong sự gặp gỡ giữa kỹ thuật hội họaphương Tây cận đại và tinh thần văn nhân Joseon.
Nếu là người thích phiêu lưu và du lịch, bạn nhất định phải ghéqua Viện Nghiên cứu Di sản Văn hóa biển Quốc gia. Ở phòngtrưng bày số 2 có chiếc thương thuyền đầu tiên của nhà NguyênTrung Quốc bị đắm sau khi đụng phải đá ngầm ở vùng biển Sinangần Mokpo năm 1323. Chiếc thuyền được trưng bày nguyêndạng như khi trục vớt cùng các hiện vật giúp ta phần nào hiểuđược cuộc sống của những thuyền nhân thời đó. Ở phòng số3 bên cạnh, bạn có thể điểm lại lịch sử phát triển của tàu thuyềnthế giới cùng dấu tích của những nhà phiêu lưu thám hiểm thờiđại khám phá thế kỷ 15. Thời hoàng đế Yong Le (Vĩnh Lạc, 1360-1424) – vị hoàng đế thứ ba của nhà Minh Trung Quốc, có nhàhàng hải Zheng He (Trịnh Hòa, 1371-1433) viễn chinh khắp thếgiới cùng đoàn tàu 62 chiếc. Trong các năm từ 1405 đến 1433,ông đã thực hiện bảy cuộc viễn chinh đến nhiều nước Châu Á,Trung Đông và Châu Phi. Mặc dù tuổi cao, ông vẫn miệt mài vớicác chuyến đi biển và cuối cùng qua đời trong một chuyến đi nhưthế. Có thể nói cái chết xứng danh một nhà hàng hải. Mỗi chúngta, ai cũng có chiếc lưới mang tên cuộc đời. Và giấc mơ của nhàthám hiểm được tung chiếc lưới ấy giữa vùng biển rộng lớn, kỳ bí,nơi chưa từng ai đặt chân đến luôn là giấc mơ đáng trân trọng ởmọi thời đại.
Bốn văn nhân của Mokpo
Qua Viện Bảo tàng Sản phẩm Gốm Sinh hoạt, tôi dừng bướcở Bảo tàng Văn học Mokpo. Có thể nói Mokpo là nơi đã sảnsinh nhiều văn nhân đáng tự hào của Hàn Quốc. Dấu tích về bốnvăn nhân lớn được trưng bày nơi đây như níu chân khách thamquan. Họ là tiểu thuyết gia Park Hwa-seong (1904-1988), nhàsoạn kịch Cha Beom-seok (1924-2006) và Kim U-jin (1897-1926),nhà nghiên cứu văn học Pháp kiêm bình luận văn học Kim Hyeon(1942-1990). Mãi đến giờ đóng cửa, tôi vẫn không thể dứt ra khỏiphòng trưng bày Kim Hyeon. Sinh thời, Kim Hyeon đã để lại hơn240 tác phẩm sáng tác và bình luận. Ông không phải nhà thơ,cũng không phải nhà văn nhưng điều gì đã khiến người Hàn Quốcyêu mến những tác phẩm của ông đến thế. Ông là nhà bình luậnvăn học mang trong mình tình yêu sâu sắc với tác phẩm.
Các trưng bày về Kim Hyeon (1942-1990),nhà bình luận văn học yêu các tác phẩm, tạiBảo tàng
Với ông,văn chương không phải đối tượng để phân tích bình phẩm mà làđối tượng để yêu, yêu cuồng nhiệt.Ông đưa tác phẩm bình luậnvào thế giới sách đồ sộ của mình, đào sâu để hiểu giấc mơ tácphẩm ấy đeo đuổi, và ở đó ông cũng tìm thấy những gì chân thậtnhất của chính mình.
“Càng cách xa, ta sẽ càng gần mình hơn. Chính sự mâu thuẫnấy đang nắm giữ bí mật tồn tại của con người” (“Nhật ký hànhtrình nghệ thuật Kim Hyeon”, 1975)
“ ‘Đọc sai’ có nghĩa người ta đọc đối tượng ấy theo mộtnguyên tắc khác. Đó trái lại là một cách đọc sẽ tạo ra nhiều điềumới mẻ.” (“Tìm về cố hương của loài người”, 1975)
“Khi người ta nói rằng thế giới tươi đẹp đang trở lại, điều ấyphải chăng có nghĩa thế giới ấy sẽ trở lại? Hay đó thật ra chỉ làmột làn gió vô nghĩa? Trong lòng đầy hồ nghi, tôi phân tích, lý giảithế giới” (“Phân tích và lý giải”, 1988)
Được lang thang giữa nơi có hơi thở lịch sử chính là món quàđặc biệt của những chuyến đi. Thi thoảng, có những lúc cuộcđời trở thành niềm cảm hứng. Với tôi, Mokpo chính là một nơinhư thế.
Mọi hải cảng đều nằm ở cuối thềm lục địa,và điều này có nghĩa với ai đó, đây sẽ là nơigắn liền.
Gwak Jae-gu Nhà thơ
ẢnhAhn Hong-beom
DịchPhan Thị Hồng Hà